Lịch sử và mục đích QWERTY

Máy đánh chữ với bàn phím QWERTY

Bàn phím QWERTY được nhà phát minh ra máy đánh chữ hiện đại đầu tiên, Christopher Sholes, một nhà biên tập báo sống ở Milwaukee nghĩ ra vào thập niên 1860. Ban đầu, các ký tự trên máy đánh chữ ông sáng chế ra được xếp theo thứ tự bảng chữ cái, đặt trên ở phía cuối của thanh kim loại để đập vào giấy khi phím đó được nhấn. Tuy nhiên, khi người gõ máy chữ đã học cách đánh nhanh thì những thanh nối với các ký tự nằm gần nhau trên bàn phím trở nên vướng vào nhau, buộc người gõ phải dùng tay gỡ các thanh gõ ra, và thường xuyên để lại dấu trên văn bản[1]. Một nhà kinh doanh làm chung với Sholes, James Densmore, đã đề nghị tách rời các phím ký tự thường dùng ra để tăng tốc độ đánh máy bằng cách sáng chế ra những cặp thanh gõ thường dùng khỏi đập vào trục cùng lúc và dính lại với nhau.

Hiệu quả của sự việc sắp xếp lại ký tự lên tốc độ gõ như thế nào vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Một vài nguồn xác nhận một cách sai lầm rằng bàn phím QWERTY được thiết kế ra để làm chậm tốc độ gõ lại để tránh kẹt.[2]. Những nguồn khác khẳng định rằng việc sắp xếp lại như vậy có hiệu quả khi tách rời những chuỗi ký tự thông thường trong tiếng Anh. Nói cho ra vẻ, thì những búa gõ có vẻ được sử dụng liên tiếp một các nhanh thì có vẻ ít khi đụng chạm vào nhau[3].

Hàng thứ hai của bàn phím QWERTY (ASDFGHJKL) được cho là tàn dư của cách trình bày bảng chữ cái cũ mà QWERTY thay thế. QWERTY cũng nỗ lực để thay thế các phím giữa bàn tay, cho phép một tay đi vào vị trí trong khi tay kia đang gõ chữ. Điều này làm tăng tốc cả kỹ thuật tìm và mổ bằng cả hai tay và cả kiểu gõ năm ngón sau này; tuy nhiên, những từ viết bằng một bên tay như stewardesses, lollipop và monopoly cho thấy điểm yếu của sự thay thế này.

Một hậu quả không may mắn của kiểu bàn phím này, đối với người thuận tay phải, đó là có nhiều từ được gõ từ bên phía tay trái hơn. Thực ra, hàng ngàn từ tiếng Anh có thể đánh vần chỉ sử dụng phía bên tay trái, trong khi chỉ có vài trăm từ có thể gõ chỉ bằng tay phải. Điều này rất tiện lợi cho người thuận tay trái[4]. Nó cũng tiện lợi cho những máy tính mà tay phải thường dùng để di chuột trong khi tay trái chủ yếu để gõ bàn phím.

Bức email đầu tiên được gửi qua mạng là vào năm 1971 bởi Ray Tomlinson đến một máy tính khác ở cùng văn phòng. Bức thư có nội dung là QWERTYUIOP - hàng đầu tiên của bàn phím[5].